A- A A+ |

Sự kiện số 17: 05 đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước

Tổng kết kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tỉnh Thanh Hóa có 56.559 liệt sĩ, 32.146 người là thương binh. Ghi nhận những đóng góp to lớn của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Thanh trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã trao tặng danh hiệu Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân cho 25 đơn vị và 71 cá nhân; danh hiệu Anh hùng lao động cho 16 đơn vị và cá nhân; 1.125 bà mẹ là Mẹ Việt Nam anh hùng và nhiều Huân huy chương, phần thưởng cao quý khác cho các tập thể và cá nhân. Trong đó, lực lượng Công an Thanh Hóa vinh dự có 09 đơn vị được đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước (trong đó có 05 đơn vị thuộc Ty Công an Thanh Hóa).

1. Đội Cảnh sát phòng cháy chữa cháy (Lệnh số 86/LCT ngày 03/9/1973 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)

Ngày 01/01/1956, Bộ Công an đã quyết định cho Ty Công an Thanh Hóa thành lập Đội Công an cứu hỏa gồm 7 đồng chí. Cùng với sự ra đời và phát triển, lực lượng phòng cháy chữa cháy được tăng cường, củng cố cả về con người và phương tiện; đảm đương nhiệm vụ bảo vệ tái sản Nhà nước tính mạng và tài sản của nhân dân. Trong 8 năm chiến tranh phá hoại (1965-1972), lực lượng phòng cháy đã tổ chức chiến đấu 123 trận; cứu được 3.361 tấn xăng dầu, 8.253 tấn lương thực, 3.524 tấn đạn, chất nổ và quân sự, 01 dầu máy Diesel, 12 tên lửa, 01 máy phát điện, 83 xe cơ giới, 32.000 nóc nhà; cứu sống được hàng chục người bị sập hầm. Trong đó có hàng chục trận cứu chữa trên đồi cao, vượt qua những đoạn đường dài từ 40 đến 50 km. Có những trận trong lúc đang cứu chữa thì máy bay địch quay lại đánh phá, bất chấp bom đạn của quân thù, cán bộ chiến sĩ vẫn dũng cảm lao vào dập tắt lửa. Trong quá trình chiến đấu đồng chí Lê Văn Hanh đã anh dũng hy sinh và nhiều đồng chí bị thương. Bên cạnh đó, Đội đã tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chữa cháy, phòng nổ, phòng độc cho 15.000 người, huấn luyện về phương pháp chỉ huy cho 1.000 cán bộ trong các cơ quan, xí nghiệp và các xã, do đó khi địch đánh phá vào các kho tàng, bến bãi, trạm trung chuyển, lực lượng chữa cháy cơ sở đã phát huy tác dụng, dũng cảm cứu chữa, bảo vệ hàng ngàn tấn hàng hóa của Nhà nước.

2. Đồn Công an Hàm Rồng (Lệnh số 86/LCT ngày 03/9/1973 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)

Đồn Công an hàm Rồng được thành lập từ năm 1957, địa bàn phụ trách gồm ba tiểu khu và hàng chục cơ quan, xí nghiệp tập trung nhiều hàng hóa, tài sản của Nhà nước. Ngay từ khi thành lập, Đồn Công an Hàm Rồng đã chủ động xây dựng kế hoạch bảo vệ, kết hợp chặt chẽ giữa phong trào “Bảo mật phòng gian” trong cơ quan với phong trào “Bảo vệ trị an” ngoài xã hội nhằm bảo vệ tốt tài sản của Nhà nước chi viện cho chiến trường. Kết quả, đã phát hiện bắt hàng trăm tên lưu manh ở nơi khác đến hoạt động; khám phá 48 vụ tham ô, trộm cắp tài sản của Nhà nước và tập thể; điển hình là vụ tên Lê Khắc Nhẫn cầm đầu ổ nhóm trộm gạo trên tàu đã bị bắt và Tòa án nhân dân tỉnh kết án tử hình.

Trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, địch đã đánh phá khu vực Hàm Rồng hơn 400 lần với đủ các loại bom đạn. Đồn Công an Hàm Rồng đã tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu hàng trăm trận bắn máy bay Mỹ. Tổ chức hướng dẫn sơ tán cho hơn 1.000 lượt người dân, hàng ngàn phương tiện giao thông ra khỏi khu vực địch bắn phá; bảo vệ tuyệt đối an toàn cho hơn 300 đoàn khách Quốc tế và nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Chính phủ đi qua. Trong 3 năm (1965-1967) Đồn Công an Hàm Rồng đã cứu sống 13 người bị sập hầm, đắm thuyền; đưa đi bệnh viện cứu hàng chục người; tổ chức chôn cất nhiều nạn nhân bị máy bay Mỹ giết hại.

Tháng 12/1972, máy bay B52 của Mỹ ném bom rải thảm có tính chất hủy diệt, cầu Hàm Rồng bị đánh hỏng, tỉnh phải mở thêm 02 cầu phao, 02 bến phà và 04 đò ngang. Cán bộ, chiến sĩ Đồn Công an Hàm Rồng ngày đêm bám phà, bám đường, tuần tra, kiểm soát, hướng dẫn, bảo vệ nhân dân qua lại an toàn; bất chấp bom đạn, mưu trí dũng cảm giải phóng xe bị ùn tắc 2 đầu bến phà, sơ tán hàng hóa đến nơi an toàn. Có trường hợp phà đang chở người sang sông thì bị thủng, có nguy cơ đắm phà, đội đã nhanh chóng lặn xuống sông, bịt lỗ thủng, đưa phà vào bến. Phát hiện địch thả thủy lôi, cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm dùng ca nô chạy ngược dòng sông hết tốc độ, gây chấn động để phá thủy lôi của địch hoặc bơi ra giữa dòng sông dùng dây kéo thủy lôi vào bờ cho công binh tháo gỡ, nhanh chóng giải phóng luồng lạch, bảo đảm giao thông thông suốt.

3. Ban Công an xã Triệu Lộc (Lệnh số 86/LCT ngày 03/9/1973 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)

Nằm sát Quốc lộ 1A, trong chiến tranh phá hoại, Ban Công an xã Triệu Lộc đã ngày đêm luân phiên tuần tra kiểm soát, vận động nhân dân thành lập các tổ “Hộ lương” có trách nhiệm giữ gìn bí mật, bảo vệ kho tàng, thu gom, vận chuyển, cất giấu hàng hóa; kiên cường bám trụ, cứu người, hàng hóa, phương tiện khi máy bay địch đánh phá...; thực hiện tốt nhiêm vụ bảo vệ giao thông vận tải trong mọi tình huống.

Khi cầu Hàm Rồng máy bay địch phá hỏng, xã Triệu Lộc trở thành trạm trung chuyển chính của tỉnh, nơi tập kết hàng hóa, phương tiện, lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam. Số lượng hàng hóa, súng đạn để khắp thôn xóm, chân đồi và dọc đường, có đoạn đường dài đến 2 km; để bảo vệ tài sản, Ban Công an xã Triệu Lộc đã tổ chức cho nhân dân học tập các nội quy, quy chế giữ gìn trật tự trị an và bảo vệ tài sản, tăng cường công tác tuần tra canh gác, không để xảy ra những vụ trộm cắp lớn.

Tháng 10/1967, một đoàn tàu gồm 20 toa, trong đó có 04 toa chở gạo vừa chạy đến Triệu Lộc thì trời sáng bị một tốp máy bay địch phát hiện, tập trung đánh phá. Tổ công tác Ban Công an xã Triệu Lộc gồm 06 đồng chí đang làm nhiệm vụ tuần tra, phát hiện thấy tàu bị cháy, đã nhanh chóng cử 02 đồng chí huy động lực lượng cứu chữa, 04 đồng chí còn lại leo lên tàu chuyển từng bao gạo xuống nơi an toàn, kịp thời cứu được 40 tấn gạo, tổ chức bàn giao vận chuyển vào miền Nam.

Đồng thời, Ban Công an xã Triệu Lộc đã tổ chức được 16 tổ bảo vệ trị an; giáo dục cảm hoá 11 đối tượng lưu manh chuyên nghiệp trở thành người làm ăn lương thiện; tổ chức Nhân dân đấu tranh với nạn cờ bạc, mê tín dị đoan.

4. Công an huyện Đông Sơn (Quyết định số 342/KT/CTN ngày 22/7/1998 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, huyện Đông Sơn là nơi tập kết hàng hóa vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, nhu yếu phấm để vận chuyển vào miền Nam; là nơi trú ẩn của hàng ngàn xe quân sự, chờ cầu phà qua sông để ra tiền tuyến; nơi sơ tán của 146 cơ quan Trung ương, địa phương và hàng vạn đồng bào thị xã Thanh Hóa; nơi đóng quân của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh, nơi đặt các kho vũ khí quan trọng, nơi cất dấu vũ khí xăng dầu, đầu máy xe lửa. Từ năm 1964 đến năm 1973,  đế quốc Mỹ đã tập trung hỏa lực không quân, hải quân tập kích ngày đêm ném 12.342 quả bom, đạn (bình quân 0,6 tấn/người) trên địa bàn huyện nhằm tấn công huỷ diệt, tạo vành đai trắng, cắt đứt sự chi viện của miền Bắc với chiến trường miền Nam.

Công an huyện Đông Sơn đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp, phối hợp chặt chẽ với các ngành, các tổ chức đoàn thể bảo đảm trật tự trị an, đối phó với các cuộc đánh phá của giặc Mỹ, đã cứu sống được 346 người, cứu chữa hàng nghìn ngôi nhà bị máy bay đánh phá; tổ chức vận chuyển sơ tán và bảo vệ 16.500 tấn lương thực, xăng dầu và hàng nghìn tấn vũ khí các loại; huy động đào đắp 14.500m3 đất đá để san lấp hố bom, nối các tuyến đường giao thông kịp thời. Điển hình, ngày 04/4/1965, khi máy bay Mỹ trút bom xuống làng Đông Tác, xã Đông Thọ, tổ công tác Công an huyện Đông Sơn do đồng chí Nguyễn Ngọc Gôi chỉ huy đã cứu được 20 người, cùng với địa phương tổ chức chôn cất 17 người chết. Ngày 07/5/1965, khi máy bay Mỹ ném bom xuống khu vực cầu Cốc, xã Đông Hương, tổ công tác của Công an huyện Đông Sơn do dồng chí Lê Bá Sinh chỉ huy đã kịp thời tổ chức nhân dân đi sơ tán, cứu chữa 40 người bị thương, chữa cháy hàng chục nóc nhà, tổ chức mai táng chôn cất 7 người chết. Ngày 20/5/1972, máy bay Mỹ ném hơn 200 quả bom xuống xóm Cộng, xã Đông Tân, tổ công tác của Công an huyện Đông Sơn do đồng chí Lê Đình Như - Trưởng Công an huyện chỉ huy đã cứu 40 người bị thương và nhiều tài sản của nhân dân.

5. Phòng Cảnh sát giao thông trật tự (Quyết định số 388/KT/CTN ngày 01/9/2000 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)

Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, cán bộ chiến sỹ lực lượng Cảnh sát giao thông đã kiên cường bám tuyến, bám cầu phà, bám dân, bất chấp mưa bom, bão đạn, xông pha ở các trọng điểm Hàm Rồng, Đò Lèn, Phà Ghép... giữ vững “mạch máu” giao thông thông suốt, kịp thời vận chuyển hàng hóa, vũ khí chi viện cho chiến trường. Lực lượng Cảnh sát giao thông Công an Thanh Hóa đã bảo vệ an toàn vận chuyển trên 15 triệu tấn hàng hóa, lương thực, vũ khí phục vụ chiến trường; cùng với ngành giao thông và nhân dân khôi phục sữa chữa 370 km đường, 59 cầu phao, mở 280 km đường nhánh tránh cầu; vận động nhân dân huy động 24.250 cây luồng, gỗ và 12.000 m3 đất đá sửa chữa đường; tổ chức sơ tán hàng chục vạn người, 9.326 phương tiện đến nơi trú ẩn an toàn; cứu 5,426 người, 6.329 khẩu súng các loại, 1.678 tấn hàng hóa, hạn chế được nhiều thiệt hại do máy bay Mỹ đánh phá; bảo vệ an toàn trên 300 đoàn cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và khách nước ngoài đến làm việc và đi qua địa bàn Thanh Hóa. Trạm Cảnh sát giao thông phà Ghép,Trạm Công an trên sông Hàm Rồng… vinh dự dược là những tập thể tiêu biểu trong công tác, chiến đấu, giữ vững giao thông thông suốt giữa hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường miền Nam.

Có 04 đơn vị Công an nhân dân vũ trang Thanh Hóa (lực lượng Bộ đôi biên phòng hiện nay) được đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước gồm:

1. Đồn 41 (Pù Nhi) - Công an nhân dân vũ trang Thanh Hóa (Lệnh số 86/LCT ngày 03/9/1973 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa);

2. Phân đội 3 bảo vệ cầu Hàm Rồng - Công an nhân dân vũ trang Thanh Hóa (Lệnh số 86/LCT ngày 03/9/1973 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa);

3. Đồn 43 (Na Mèo) - Công an nhân dân vũ trang Thanh Hóa (Lệnh số 104/LCT ngày 06/11/1978 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam);

4. Trạm kiểm soát đảo Nghi Sơn, Đồn 42 - Công an nhân dân vũ trang Thanh Hóa (Lệnh số 104/LCT ngày 06/11/1978 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Nguồn sách “Lịch sử biên niên Công an nhân dân Thanh Hóa (1954 - 1975)”


Tác giả: Ban Biên tập Cổng TTĐT
Tin liên quan
Thăm dò ý kiến
noData
Không có dữ liệu