MỘT SỐ ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT VÀ KỶ LUẬTCỦA ĐẢNG
Ngày 28/7/2021, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Quy định số 22-QĐ/TW quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng thay thế Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/7/2016. Cơ quan Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Công an tỉnh Thanh Hóa trân trọng giới thiệu một số điểm mới trong Quy định số 22-QĐ/TW
Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, trước hết là của các cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng. Công tác kiểm tra, giám sát giúp nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật của tổ chức đảng, đảng viên, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Sau các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, Trung ương luôn ban hành hướng dẫn, quy định mới về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, đó là:
- Nhiệm kỳ Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001 - 2006), Ban Bí thư đã ban hành Quyết định số 10- QĐ/TW, ngày 25/9/2001 hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng (giai đoạn này, Trung ương chưa quy định nhiệm vụ giám sát cho tổ chức đảng và UBKT các cấp).
- Đến nhiệm kỳ Đại hội lần thứ X (2006 - 2011), Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 25- QĐ/TW, ngày 24/11/2006 hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khoá X. Tại Quy định này, lần đầu tiên Trung ương quy định thêm nhiệm vụ giám sát cho tổ chức đảng, UBKT các cấp.
- Nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XI (2011 - 2016), Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khoá XI. Như vậy, tại nhiệm kỳ này, lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương ban hành quyết định để hướng dẫn việc thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
- Đến nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XII, Ban Chấp hành Trung ương không ban hành Hướng dẫn, mà ban hành Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Trong quá trình thực hiện, Quy định 30 bộc lộ một số bất cập, vướng mắc, hạn chế như: Một số nội dung còn thiếu, chưa được bổ sung kịp thời; có nội dung chưa thật sự rõ ràng dẫn đến cách hiểu, cách vận dụng khác nhau; kết cấu của Quy định còn có sự trùng lặp, chưa logic, các nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy và ủy ban kiểm tra quy định ở các khoản, mục khác nhau.
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, Hội nghị Trung ương lần thứ Ba đã thông qua quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Sau đó Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 vê công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, thay thế Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) thi hành Chương VII, Chương VIII Điều lệ Đảng.
I. VỀ TÊN GỌI, KẾT CẤU CỦA QUY ĐỊNH
1. Tên gọi Quy định là: "Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng".
Việc đổi tên gọi với mục đích tổng hợp có hệ thống các quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng vào một văn bản để thực hiện thống nhất (thay vì chỉ hướng dẫn thực hiện Chương VII, Chương VIII, Điều lệ Đảng như Quy định 30).
2. Kết cấu của Quy định
Quy định 22 được bố cục, sắp xếp khoa học, chặt chẽ, dễ nhớ, dễ thực hiện. Quy định cũ quy định theo từng điều của Điều lệ Đảng, còn Quy định 22 quy định theo từng chương, từng nhóm chuyên đề, có tính hệ thống và chuyên sâu hơn, theo chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy, ủy ban kiểm tra và các nội dung của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, không bị chồng chéo.
Quy định gồm 7 chương, 36 Điều, cụ thể: Chương I: Quy định chung; Chương II: Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Chương III: Thi hành kỷ luật trong Đảng; Chương IV: Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; Chương V: Giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng; Chương VI: Đình chỉ sinh hoạt đảng; Chương VII: Tổ chức thực hiện[1].
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
Quy định số 22-QĐ/TW bổ sung một số nội dung quan trọng để cụ thể hoá Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng theo hướng tăng cường trách nhiệm, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả bảo đảm khách quan, dân chủ, thống nhất, chặt chẽ, khả thi, cụ thể như sau:
1. Về quy định chung
Đây là phần mới trong kết cấu của Quy định 22, nội dung quy định một số nguyên tắc chung làm căn cứ để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật của tổ chức đảng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới, Quy định đã bổ sung một số nội dung quan trọng, đó là:
- Thứ nhất: Về nguyên tắc trong kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, bổ sung nội dung: "Công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung .." (khoản 3, Điều 2).
Đây chính là cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng luôn khuyến khích, vinh danh và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đương đầu với khó khăn thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
- Thứ hai: Về giải thích từ ngữ:
+ Khái niệm kiểm tra của Đảng, Quy định 22 bổ sung thêm việc chấp hành quyết định, quy chế, kết luận của Đảng như sau: “Kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước” (Điều 3. Khoản 3).
+ Khái niệm giám sát của Đảng, ngoài việc quan sát, theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động, Quy định 22 bổ sung thêm nắm bắt, kết luận nhằm kịp thời nhắc nhở, đồng thời bổ sung thêm việc chấp hành quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, và khắc phục sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, vi phạm, như sau:
“Giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng quan sát, theo dõi, nắm bắt, xem xét, đánh giá, kết luận hoạt động nhằm kịp thời nhắc nhở để cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và khắc phục sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, vi phạm (nếu có)
Hình thức giám sát có giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề; giám sát chuyên đề khi cần thiết thì thực hiện thẩm tra, xác minh" (Khoản 4, Điều 3).
Đây là nội dung được cụ thể hóa từ Quy định số 86-QĐ/TW, ngày 01/6/2017 của Bộ Chính trị về giám sát trong Đảng; để đảm bảo tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát của Đảng.
Việc thực hiện thẩm tra, xác minh trong giám sát chuyên đề nhằm mục đích chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Trưởng đoàn giám sát căn cứ tình hình, nội dung cụ thể để quyết định có thẩm tra, xác minh hay không.
- Thứ ba: Bổ sung quy định về nguyên tắc trong kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng, đó là
Đối tượng kiểm tra, giám sát "Không được sử dụng thiết bị ghi âm, ghi hình, thu phát sóng khi làm việc với chủ thể kiểm tra, giám sát" (khoản 6, Điều 3).
Nhằm phòng ngừa đối tượng kiểm tra, giám sát ghi âm, ghi hình các nội dung đang trong quá trình kiểm tra, giám sát chưa được phép công khai để sử dụng cho mục đích xấu, bảo đảm giữ bí mật danh tính người tố cáo và trong thực tế chưa có quy định để xử lý vi phạm này.
2. Những bổ sung về nhiệm vụ, thẩm quyền của cấp ủy, tổ chức đảng
Để khắc phục tồn tại, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật của cấp ủy, tổ chức đảng thời gian qua, dự báo các hành vi, vi phạm mới; đảm bảo đáp ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Quy định đã bổ sung một số thẩm quyền, nhiệm vụ mới cho cấp ủy, tổ chức đảng như sau:
- Thứ nhất: Bổ sung nội dung lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng như sau: “Lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước” (Điểm b, khoản 1, Điều 4).
Để cụ thể hóa và thống nhất với quy định: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” và nhiệm vụ của đảng viên “Tuyệt đối trung thành với mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành… pháp luật của Nhà nước” (Khoản 1, Điều 2, Điều lệ Đảng).
- Thứ hai: Bổ sung thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra:
+ Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, được yêu cầu tổ chức đảng và đảng viên có liên quan báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc kiểm tra và phải giữ bí mật nội dung thông tin, tài liệu.
+ Qua kiểm tra, yêu cầu đối tượng kiểm tra kịp thời khắc phục, sửa chữa hạn chế, khuyết điểm; nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm” (Điểm 1.3, Khoản 1, Điều 5).
Lý do bổ sung: Quy định 30 mới chỉ quy định thẩm quyền và trách nhiệm của cấp ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát, chưa quy định trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra chấp hành.
- Thứ ba: Bổ sung thêm nội dung tổ chức đảng cấp trên chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới xem xét, xử lý đối với đảng viên sau khi chuyển sinh hoạt đảng sang tổ chức đảng mới, như sau:
"Đảng viên sau khi chuyển sinh hoạt đảng sang tổ chức đảng mới, nếu phát hiện hoặc bị tố cáo có vi phạm kỷ luật ở nơi sinh hoạt đảng trước đây mà chưa được xem xét, xử lý thì do tổ chức đảng cấp trên của các đảng bộ nơi quản lý đảng viên trước đây và hiện nay xem xét, xử lý hoặc chỉ đạo tổ chức đảng cấp dưới xem xét, xử lý theo thẩm quyền" (Khoản 3, Điều 9).
Để việc xem xét, xử lý phù hợp thực tiễn và lỗi phạm, tránh việc cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên phải xem xét, xử lý vi phạm của đảng viên thuộc thẩm quyền của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp dưới, gây mất nhiều thời gian và tăng thủ tục hành chính như quy định trước đây.
- Thứ tư: Bổ sung thẩm quyền kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên cho ban thường vụ đảng ủy cơ sở: “Ban thường vụ đảng ủy cơ sở quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ (kể cả đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý nhưng không phải cấp ủy viên cùng cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý)" và “... ban thường vụ cấp ủy từ cấp cơ sở trở lên có quyền kỷ luật tổ chức đảng cấp dưới theo quy định” để thống nhất với thẩm quyền thi hành kỷ luật, giải quyết khiếu nại và các nhiệm vụ khác của ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở theo quy định của Điều lệ Đảng (Điểm 1.3, Khoản 1, Điều 11 và Khoản 1, Điều 12).
3. Những bổ sung về nhiệm vụ, thẩm quyền của UBKT các cấp
Nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật; công tác hướng dẫn và chỉ đạo của UBKT cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT cấp dưới, Quy định 22 đã giao thêm một số nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất. Bổ sung quy định ủy ban kiểm tra cấp trên chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT cấp dưới về công tác kiểm tra, giám sát như sau: "chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp dưới về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng" (Tiết a, Điểm 1.3, Khoản 1, Điều 8).
Quy định nội dung này là để cụ thể hóa Kết luận số 72 và Kết luận số 38 của Bộ Chính trị[2], Bộ Chính trị đã thống nhất đề nghị bổ sung thêm thẩm quyền này cho UBKT các cấp.
- Thứ hai: Bổ sung thêm nội dung giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp như sau:" Việc giữ gìn đạo đức, lối sống và thực hiện trách nhiệm nêu gương theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư" (Tiết a, Điểm 3.1.1, mục 3.1, khoản 3, Điều 8).
Quy định này là cụ thể hóa Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên là để củng cố niềm tin của dân đối với đảng và khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu tạo sự lan tỏa trong xã hội.
- Thứ ba: Quy định ủy ban kiểm tra được "yêu cầu, kiến nghị tổ chức đảng, cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thu hồi các văn bản trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước” trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, như sau:
Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, báo cáo cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ yêu cầu, kiến nghị tổ chức đảng, cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thu hồi các văn bản trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề nghị cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ xem xét, xử lý theo thẩm quyền đối với các vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật (Điểm 4.6, Khoản 4, Điều 8).
Lý do bổ sung nhằm kịp thời ngăn chặn những vi phạm, hạn chế hậu quả phát sinh do việc ban hành các quy định sai trái của tổ chức đảng và đảng viên.
- Thứ tư: Bổ sung thẩm quyền thi hành kỷ luật của ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở đối với đảng viên vi phạm như sau: Uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở quyết định hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong đảng bộ (kể cả cấp uỷ viên chi bộ, cấp uỷ viên đảng uỷ bộ phận, cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp) (Điểm 2.1, Khoản 2, Điều 11).
Theo quy định, UBKT được lập ở 4 cấp do cấp ủy cùng cấp bầu, có 6 nhiệm vụ, việc quy định cụ thể cho ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở thẩm quyền thi hành kỷ luật và các nhiệm vụ khác theo quy định của Điều lệ là thực hiện chủ trương đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền cho địa phương, đồng thời phải trao quyền cho cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XII), đó là: "Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện".
- Thứ năm: Bổ sung thẩm quyền thi hành kỷ luật của UBKT các cấp đối với tổ chức đảng cấp dưới vi phạm như sau:
Uỷ ban kiểm tra các cấp xem xét, kết luận, đề xuất với cấp uỷ hoặc ban thường vụ cấp uỷ trong việc xử lý kỷ luật tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp; quyết định hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo tổ chức đảng trực thuộc cấp uỷ cấp dưới (Khoản 2, Điều 12).
Điều lệ Đảng chỉ quy định UBKT có thẩm quyền kỷ luật đảng viên; tuy nhiên, thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư về xử lý tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, thời gian qua UBKT Trung ương đã thực hiện kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với nhiều tổ chức đảng cấp dưới cách cấp, phát hiện nhiều tổ chức đảng cấp dưới vi phạm kỷ luật nhưng do chưa có thẩm quyền kỷ luật đối với tổ chức đảng nên việc xử lý kỷ luật không được thực hiện kịp thời, nghiêm minh.
Việc tăng thẩm quyền cho UBKT các cấp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý kỷ luật luật đảng, theo đúng phương châm công minh, chính xác kịp thời trong thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng vi phạm. Quy định này đã tháo gỡ được vướng mắc của UBKT các cấp trong kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với các tổ chức đảng cấp dưới cấp trực tiếp.
IV. MỘT SỐ BỔ SUNG VỀ THI HÀNH KỶ LUẬT, GIẢI QUYẾT TỐ CÁO, KHIẾU NẠI, ĐÌNH CHỈ SINH HOẠT ĐẢNG
Thứ nhất: bổ sung việc thi hành kỷ luật đối với đảng viên vi phạm pháp luật như sau:
"Trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành các vụ án, nếu phát hiện vi phạm liên quan đến cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý thì chuyển thông tin, hồ sơ, tài liệu liên quan đến ủy ban kiểm tra cùng cấp để kiểm tra, xử lý theo đúng quy định của Đảng".
"Ủy ban kiểm tra cùng cấp kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo" (Khoản 4, Điều 8).
“Đảng viên bị khởi tố, truy tố hoặc bị tạm giam hoặc do cơ quan thanh tra, kiểm toán cung cấp nội dung vi phạm pháp luật thì tổ chức đảng có thẩm quyền chủ động, kịp thời kiểm tra, kết luận và xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên có vi phạm đến mức phải xử lý, không chờ kết luận hoặc tuyên án của toà án hoặc kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm toán...” (Khoản 2, Điều 17).
Lý do bổ sung: Để chủ động thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, không chờ đến khi kết thúc quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, thi hành án, cần Đồng thời, cụ thể hóa trách nhiệm của ủy ban kiểm tra trong công tác phòng, chống tham nhũng theo Quy định số 01-QĐi/TW, ngày 10/05/2018 của Bộ Chính trị về trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác phòng, chống tham nhũng.
- Thứ hai: Về nguyên tắc thi hành kỷ luật trong Đảng.
Bổ sung quy định chưa xem xét xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm bị bệnh nặng, như sau: Đảng viên vi phạm đang trong thời gian mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, bị bệnh nặng thì chưa xem xét, xử lý kỷ luật. Trường hợp đảng viên vi phạm đã qua đời tổ chức đảng xem xét, không xử lý kỷ luật, trừ trường hợp có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng (Khoản 7 Điều 9).
Lý do bổ sung: Để một số đảng viên, trong đó có cán bộ và nguyên cán bộ cấp cao của Đảng vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, có người bị khởi tố, tạm giam, truy tố đã lợi dụng tính nhân văn trong quy định của Đảng để tránh né, kéo dài việc xem xét, xử lý kỷ luật dẫn đến giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Để kỷ luật đảng được thực hiện nghiêm minh, kịp thời và đồng bộ với quy định của Bộ luật Hình sự, đồng thời thể hiện tính nhân văn trong việc xem xét, xử lý kỷ luật của Đảng.
- Thứ ba: Về hiệu lực quyết định kỷ luật
+ Bổ sung hiệu lực trong trường hợp cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng mà thay đổi hình thức kỷ luật như sau: “Trường hợp quyết định thay đổi hình thức kỷ luật, thì thời hạn chấp hành kỷ luật được tính từ ngày quyết định kỷ luật đầu tiên có hiệu lực” (Khoản 11, Điều 16).
+ Bổ sung quy định này nhằm thống nhất và tháo gỡ vướng mắc về thời hiệu của quyết định kỷ luật; đảm bảo kỷ luật được xử lý nghiêm minh nhưng phải chính xác, khách quan, công bằng và nhân văn cho đảng viên bị kỷ luật. Để đảng viên bị kỷ luật không phải chấp hành thêm thời gian của một quyết định kỷ luật tiếp theo khi hình thức kỷ luật thay đổi.
(Đối với trường hợp giữ nguyên hình thức kỷ luật thì thời gian chấm dứt hiệu lực kỷ luật được tính là sau một năm kể từ ngày quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật cuối cùng).
- Thứ tư: Về thẩm quyền, nguyên tắc giải quyết tố cáo
+ Bổ sung quy định việc giải quyết tố cáo đối với cán bộ đã nghỉ hưu như sau: "Trường hợp đảng viên là cấp uỷ viên các cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý đã nghỉ hưu, nếu bị tố cáo vi phạm khi đang công tác thì thẩm quyền giải quyết tố cáo của các tổ chức đảng được thực hiện như đang đương chức" để làm căn cứ giải quyết thống nhất trong toàn Đảng (Khoản 2, Điều 19).
Lý do bổ sung: Từ thực tiễn giải quyết tố cáo, có cán bộ về hưu bị tố cáo vi phạm trong thời gian đang đương chức nhưng chưa có quy định tổ chức đảng có thẩm quyền giải quyết nên vướng mắc trong thực hiện.
+ Bổ sung trường hợp không giải quyết tố cáo khi người tố cáo tự nguyện rút đơn nay tố lại, hoặc đã có thông báo không xem xét, giải quyết (Khoản 7, Điều 20)
Khi người tố cáo tự nguyện xin rút đơn, đã được tổ chức đảng có thẩm quyền đồng ý và làm thủ tục cho rút đơn, nếu tố cáo lại nội dung cũ mà không có thêm nội dung, tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi bản chất vụ việc thì không giải quyết.
Lý do bổ sung: Khi thực hiện nhiệm vụ, có không ít trường hợp người tố cáo sau khi làm việc với tổ công tác của ủy ban kiểm tra đã tự nguyện rút đơn hoặc đã có thông báo không xem xét, giải quyết nhưng sau đó lại tiếp tục tố cáo lại, gửi nhiều lần, làm mất nhiều thời gian, công sức mà nội dung không khác với kết quả đã thẩm tra, xác minh của ủy ban kiểm tra.
- Thứ năm, về thẩm quyền, trách nhiệm, phạm vi, đối tượng và thời gian giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, bổ sung một số nội dung sau:
+ Bổ sung thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại kỷ luật của tổ chức đảng do UBKT thi hành kỷ luật, như sau: "Ban thường vụ cấp uỷ hoặc cấp uỷ là cấp giải quyết khiếu nại kỷ luật lần đầu của tổ chức đảng đối với quyết định kỷ luật của uỷ ban kiểm tra cùng cấp". (Khoản 2, Điều 22)
Lý do bổ sung: UBKT được bổ sung thẩm quyền thi hành kỷ luật tổ chức đảng.
+ Bổ sung thêm trường hợp không giải quyết khiếu nại khi đảng viên từ chối nhận quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng (Khoản 3, Điều 24).
Lý do bổ sung: Thời gian qua, một số đảng viên từ chối nhận quyết định kỷ luật hoặc quyết định giải quyết khiếu nại kỷ luật nhưng vẫn khiếu nại. Để bảo đảm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, nâng cao trách nhiệm của đảng viên trong việc chấp hành nghiêm quyết định kỷ luật.
+ Bổ sung về thời gian giải quyết khiếu nại: Thay vì trường hợp hết thời hạn 90 ngày mà chưa giải quyết xong phải thông báo cho người khiếu nại biết như quy định trước đây; nay quy định: Trường hợp hết thời hạn mà chưa giải quyết xong thì được gia hạn nhưng không quá 30 ngày, đồng thời phải có văn bản thông báo cho người khiếu nại biết (Khoản 2, Điều 26).
Lý do bổ sung: Do trước đây không có quy định về thời hạn gia hạn trong giải quyết khiếu nại nên đề nghị bổ sung nên dung trên để nâng cao trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng việc trong việc giải quyết khiếu nại kỷ luật và có căn cứ, cơ sở thông báo cho người khiếu nại biết.
Ngoài ra, quy định còn thống nhất, quy định cụ thể thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo, đình chỉ sinh hoạt đảng, thời gian gia hạn giải quyết khiếu nại để tránh tình trạng cấp ủy, tổ chức đảng kéo dài việc giải quyết như trước đây.
-------
[1] Chương I: Từ Điều 1 đến Điều 3; Chương II: Từ Điều 4 đến Điều 8; Chương III: Từ Điều 9 đến Điều 18; Chương IV: Từ Điều 19 đến Điều 21; Chương V: Từ Điều 22 đến Điều 27; Chương VI: Từ Điều 28 đến Điều 33; Chương VII: Từ Điều 34 đến Điều 36.
[2] Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát Đảng đến năm 2020, Kết luận số 38-KL/TW, ngày 03/8/2017 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020.